Broome là một thị trấn ven biển nằm ở vùng Tây Bắc xa xôi của bang Tây Úc, nơi sa mạc Kimberley gặp đại dương Ấn Độ Dương. Nổi tiếng với bãi biển Cable Beach dài hơn 22 km, cát trắng mịn và những buổi hoàng hôn rực rỡ phản chiếu trên mặt biển, Broome vừa là điểm du lịch nghỉ dưỡng, vừa là nơi lưu giữ một phần quan trọng trong lịch sử phát triển của nước Úc – lịch sử ngành làm ngọc trai (pearling). Cũng vì vậy mà Broome tuy xa xôi nhưng luôn thu hút dân du lịch roadtrip, và mình thấy cũng khá nhiều việc làm cho visa 462 trong khối nhà hàng khách sạn ở khu vực xa xôi này nên các bạn dự định qua Úc working holiday tham khảo ha.

Broome cũng là điểm đến cuối cùng trong chuyến road trip từ Darwin sang Broome, Tây Úc.

Ngành ngọc trai cao cấp của Úc ở Broome

Lịch sử ngọc trai của Broome bắt đầu từ những năm 1880, khi nơi đây trở thành trung tâm đánh bắt vỏ sò Pinctada maxima – loại sò tạo ra ngọc trai South Sea nổi tiếng. Ban đầu, người bản địa Yawuru và các thợ lặn đến từ các đảo Torres Strait, Nhật Bản, Trung Quốc và Malaysia đã cùng làm việc trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt. Họ phải lặn sâu bằng những bộ đồ nặng nề, đối mặt với rủi ro ngạt thở, bệnh giảm áp và cả cá mập để lấy được những vỏ sò quý hiếm dưới đáy biển. Nhiều người trong số họ đã hy sinh, và Broome từng được gọi là “thủ đô ngọc trai của thế giới” – nơi ngọc trai không chỉ là biểu tượng của sự sang trọng mà còn gắn liền với mồ hôi và máu của những người thợ lặn can đảm.

Đến giữa thế kỷ 20, công nghệ nuôi cấy ngọc trai phát triển, giúp ngành này chuyển sang hướng bền vững và an toàn hơn. Broome trở thành cái nôi của ngọc trai South Sea Pearl, được đánh giá là một trong những loại ngọc trai đẹp nhất thế giới nhờ kích thước lớn, ánh sắc tinh tế và độ mịn hoàn hảo. Các công ty như Willie Creek PearlsCygnet Bay Pearls đã đưa nghề nuôi ngọc trai Broome lên tầm quốc tế, đồng thời mở cửa cho du khách tham quan trang trại, tìm hiểu quy trình tạo ngọc từ khâu nuôi hàu đến thu hoạch.

Người Nhật ở Broome

Ngày nay thành phố Broome vẫn còn “china town” – khu phố Tàu nhưng đúng ra phải là Japan town mới đúng vì khu trung tâm của Broome ngày xưa là khu vực tập trung cửa hàng dịch vụ mua bán của người Nhật, trước các biển hiệu vẫn còn để tên cửa hiệu cũ của Nhật và bác sĩ Nhật cũng từng tới khu vực Kimberly này để mở bệnh viện đầu tiên bằng tiếng không phải tiếng Anh để chăm sóc người Úc, thổ dân Úc.

Từ xưa người thổ dân ở khu vực Tây Kimberly (phía bắc của bang Tây Úc) đã dùng vỏ trai/ vỏ sò làm trang trí, khắc hoạ tiết thổ dân dùng trong các dịp lễ hội… Họ không hề biết rằng vỏ trai Pinctada maxima ở khu vực này có kích thước lớn nhất thế giới và ngọc trai ở đây có chất lượng hàng đầu. Người thổ dân Kimberly ngày xưa dùng vỏ trai để khắc họa tiết lên như vậy và họ hoàn toàn không có tranh vẽ trên đá như là người thổ dân Bắc Úc hay Nam Úc. Người thổ dân ở đây cũng tham gia vào quá trình lặn mò tìm vỏ trai/ nuôi cấy ngọc trai và thấy họ hoà hợp với người sắc tộc khác hơn hẳn người ở Bắc Úc. Trong city họ cũng tụ tập làm bbq, tập thể thao như mọi người chứ không chỉ say xỉn vạ vật phá như ở Bắc Úc.

Người da trắng bắt đầu biết tới vỏ trai từ cuối tk19 và họ thu mua vỏ trai để làm nút áo. Năm 1881, thuyền bắt đầu đến Broome, mang theo bộ đồ lặn, mũ bảo hiểm bằng đồng, giày chì và thiết bị lặn. Nhìn ra ngoài qua lớp kính dày, thợ lặn thu thập được càng nhiều vỏ trai càng tốt trong mỗi lần lặn, vì họ được trả tiền theo số lượng vỏ trai thu thập được. Mặc dù lớp vỏ mang lại phần thưởng, nhưng lặn rất nguy hiểm ở vùng biển Kimberley, nơi thợ lặn phải đối mặt với lốc xoáy, cá mập, cá sấu, bệnh tê phù, nhiễm trùng…

Đến năm 1914, Broome đã cung cấp 80% vỏ ngọc trai của thế giới và có hơn 400 tàu kéo và 3.500 người tham gia vào ngành công nghiệp này. Vào thời kỳ đỉnh cao, vỏ ngọc trai có giá trị 400 bảng Anh một tấn.

Thị trấn Broome phát triển thịnh vượng và có dân số đa quốc gia bao gồm người Hoa, người Nhật, người Sri Lanka, người Tây Úc (chủ yếu là thổ dân), người dân đảo Torres Strait, người Manila và người Philippines từ Philippines, người Mã Lai từ Malaysia, người Rotumah từ Roti, người Koepanger từ Timor và người Amboinese từ Moluccas, tất cả đều ở đó để tham gia vào ngành công nghiệp ngọc trai.

Theo Đạo luật Ngọc trai Tây Úc năm 1913, chỉ có công dân Anh mới được phép sở hữu tàu đánh bắt ngọc trai và hệ thống giai cấp cứng nhắc đã ra đời, với người Nhật làm thợ lặn, người Mã Lai và người Koepanger làm thủy thủ và thủy thủ đoàn.

Cuối cùng, người Nhật chiếm phần lớn trong số những người làm việc trên tàu đánh bắt, làm lao động theo hợp đồng. Hầu hết thợ lặn Nhật Bản đều đến từ thành phố Taiji, hiện là thành phố kết nghĩa với Broome. Nhiều người Nhật Bản đã phải vật lộn để trả nợ, thường là trả nợ cho chuyến đi đến Úc. Nhóm người nhập cư lớn nhất là người Trung Quốc, những người làm nghề đánh bắt ngọc trai, đầu bếp và bán hàng.

Việc áp dụng Chính sách Úc da trắng vào đầu thế kỷ 20 đã khiến chính phủ tuyển dụng thợ lặn hải quân Anh thay cho người Nhật, nhưng hầu hết bị tật hoặc tử nạn. Do cần người làm việc cực nên Broome được miễn trừ khỏi chính sách này (cũng giống occupation list cho skilled migrants bây giờ). Trong khi khắp nơi trên nước Úc, các gia đình Úc lai Á bị ly tán (xem bảo tàng người di cư ở Melbourne sẽ thấy) thì người Á ở Broome vẫn sống thoải mái. Theo luật thì người da màu phải sống ngoài tàu biển xa và không được lên bờ nhưng thực tế thì người Nhật vẫn mở cửa hàng buôn bán, sinh sống giữa người da trắng và thổ dân.

Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, sản xuất trai gần như ngừng lại, khi Nhật Bản tham chiến WWII đánh bom Úc, hầu hết người Nhật bị giam giữ trong các trại tù binh chiến tranh và sau 1953 những nhà làm ngọc trai ở Broome đã vận động khối thịnh vượng chung để thợ lặn người Nhật có thể quay lại Broome làm việc.

Key takeaway là double standards luôn luôn tồn tại nhưng nếu chẳng may không có lợi thế về màu da thì phải tạo ra lợi thế về kỹ năng để chúng nó nể mình nhé ????????

Người Nhật đặt nền móng cho ngành nuôi ngọc trai ở Broome, Tây Úc

Ngọc trai nuôi được Kokichi Mikimoto phát minh vào đầu thế kỷ 20 đã cách mạng hóa ngành công nghiệp ngọc trai và cho phép sản xuất ngọc trai trong điều kiện trang trại có cấu trúc.

Trước khi có khả năng tạo ra ngọc trai nuôi, ngọc trai được sản xuất ngẫu nhiên và không thể dự đoán được con hàu nào sẽ tạo ra ngọc trai. Mikimoto đã hoàn thiện phương pháp đưa một hạt nhỏ vào con hàu để kích thích con hàu và khiến con hàu phủ một lớp xà cừ. Con hàu tiếp tục phủ hạt xà cừ tạo ra ngọc trai và thường được thu hoạch sau 2 năm. Ngọc trai nuôi là ngọc trai thật và việc đưa hạt vào con hàu mô phỏng quá trình tạo ra ngọc trai tự nhiên, trong đó một hạt sạn nhỏ trong nước kích thích con hàu tạo ra ngọc trai.

Kỹ thuật nuôi cấy ngọc trai được người Nhật giới thiệu ngay sau đó và nhanh chóng phát triển ở Broome, nơi tiếp tục sản xuất phần lớn Ngọc trai nuôi chất lượng tốt nhất thế giới do có loại vỏ trai có kích thước lớn nhất thế giới.

Trên đường phố Broome ngày nay vẫn còn những tượng đài ghi nhận sự đóng góp của người Nhật, văn hóa Nhật trong nền văn hóa đa dạng của nước Úc. Tháng 9 theo truyền thống đánh dấu sự kết thúc của mùa thu hoạch ngọc trai. Ngày nay Shinju Matsuri là lễ hội được tổ chức tháng 9 hàng năm ở Broome, việc đặt một cái tên Nhật cho lễ hội ở Úc (thường hiếm thấy vì ở Úc thích đặt tên thổ dân) cũng là một sự ghi nhận đóng góp của người Nhật vào văn hóa/ kinh tế Úc nói chung.

(Visited 16 times, 1 visits today)

Leave A Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.